Nghiên cứu tính hiệu quả và an toàn của kỹ thuật khoan cắt mảng xơ vữa cho những tổn thương mạch vành vôi hóa nặng không thê xuyên và/hoặc nong bằng bóng
Từ khóa:
khoan cắt mảng xơ vữa, không thể đưa bóng qua, không thể nongTóm tắt
Đặt vấn đề: Tổn thương mạch vành vôi hóa nặng không thể nong bằng bóng hoặc không thể đưa dụng cụ qua thường phải chấp nhận thất bại hoặc kết quả không tối ưu nếu không có kỹ thuật khoan cắt mảng xơ vữa.
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu tính hiệu quả và an toàn của kỹ thuật khoan cắt mảng xơ vữa cho những tổn thương mạch vành vôi hóa nặng không thể nong bằng bóng hoặc không thể đưa dụng cụ qua.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp tiến cứu theo dõi dọc trong thời gian nằm viện.
Kết quả: Nghiên cứu đã tuyển mộ được 160 bệnh nhân với tuổi trung bình 70,10 ± 8,59 (năm), trong đó có 93 (58,1%) bệnh nhân nam. Tổn thương hẹp trung bình là 90,26 ± 5,90% và dài 56,13 ± 21,03 (mm) và phân độ can-xi là 3(+). Đường kính mũi khoan sử dụng l,25mm, l,5mm và l,75mm có xuất độ lần lượt là 125 (78,1%), 33(20,6%) và 2 (1,3%). Kỹ thuật khoan cắt bằng rotablator đã thực hiện thành công trên 157/160 (98,10%). số lần chạy trung bình để qua được tổn thương là 4,34 ± 1,95với thời gian khoan 51,28 ± 47,10 (giây) và tốc độ khoan là 179.836 ± 11.771 (vòng/phút). Thời gian thủ thuật trung bình 113,27 ± 42,95 phút và lượng cản quang sử dụng 175,76 ± 64,76 (ml). Có 3 trường họp có vấn đề khi khoan, trong đó ghi nhận 1 biến chứng bóc tách gần nặng, và 2 trường họp khoan với thời gian dài nhưng không tiến triển.
Kết luận: Kỹ thuật khoan cắt mảng xơ vữa cho những tổn thương mạch vành vôi hóa nặng đã thất bại với các phương pháp khác là kỹ thuật hiệu quả và an toàn. Đây là kỹ thuật xâm lấn cao vì vậy nên được thực hiện bởi bác sĩ có kinh nghiệm và ở trung tâm tim mạch lớn.